Hoàng Thái Hậu Từ Dũ Dạy Con

Hoàng Thái Hậu Từ Dũ Dạy Con

Xương Thọ Lăng nằm giữa rừng thông đặc dụng cảnh quan bên bờ nam sông Hương, thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng (thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Xương Thọ Lăng nằm giữa rừng thông đặc dụng cảnh quan bên bờ nam sông Hương, thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng (thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế).

Lăng mộ hoàng thái hậu Từ Dụ sau trùng tu

Thừa Thiên - HuếLăng mộ hoàng thái hậu Từ Dụ, vợ vua Thiệu Trị, được trùng tu hoàn chỉnh sau một năm với kinh phí gần 6,9 tỷ đồng.

Hoàng thái hậu (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: Dowager Empress, Empress Dowager hay Empress Mother), thường được gọi tắt là Thái hậu (太后), là một tước vị được quy định dành cho mẹ của Hoàng đế, hoặc vợ cả của Hoàng đế đời trước (hoặc Thái thượng hoàng) trong các khối đồng văn Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Theo chuẩn mực ban đầu, danh hiệu này được Hoàng đế đang tại vị tấn tôn cho Hoàng hậu của Hoàng đế đời trước. Vào đầu thời kỳ nhà Hán, mẹ ruột của Hoàng đế thường là Hoàng hậu đời trước nên việc tấn tôn được tiến hành đúng theo quy củ. Về sau bắt đầu có hiện tượng Hoàng hậu không sinh ra Hoàng đế kế vị, mà mẹ của Hoàng đế kế vị vốn chỉ là phi tần. Khi này, danh vị Hoàng thái hậu hầu như chỉ dành cho mẹ cả (Đích mẫu) của Hoàng đế, còn mẹ đẻ (sinh mẫu) của Hoàng đế chỉ được tôn làm Hoàng thái phi, mãi đến khi Đích mẫu qua đời thì Hoàng đế mới có thể tấn tôn Sinh mẫu làm Hoàng thái hậu. Thời nhà Minh và nhà Thanh, Đích mẫu và Sinh mẫu có thể được đồng tôn danh hiệu Hoàng thái hậu nhưng sẽ có quy định đặc thù về chế độ đãi ngộ.

Chữ 「Thái; 太」, cũng giống chữ 「Đại; 大」, đều mang ý nghĩa to lớn, cộng thêm tư tưởng "Lấy hiếu vị Thiên" khiến cho địa vị của các Thái hậu trở nên đặc biệt trong triều đình quốc gia Đông Á, bao trùm và có khả năng ảnh hưởng đến Hoàng đế. Điều này dẫn đến các hiện tượng Thái hậu chuyên quyền, công khai lâm triều nhiếp chính, ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa và lịch sử, 3 người phụ nữ điển hình là Lã hậu, Võ Tắc Thiên và Từ Hi Thái hậu.

Khái luận về xuất xứ của danh xưng Thái hậu được đề cập trong Sự vật khởi nguyên (事物紀原) của Cao Thừa (高承) thời nhà Tống:「"Sử ký - Tần bản kỷ viết: Chiêu vương mẫu Mị thị, hiệu Tuyên Thái hậu. Từ đó Vương mẫu đều gọi như vậy"; 《史記秦本紀》曰:昭王母羋氏,號宣太后。王母於是始以為稱。」

Theo đó, thời Tiên Tần, khi Tần Chiêu Tương vương tôn mẹ là Mị thị làm Tuyên Thái hậu, thì khi đó mới có danh vị Vương thái hậu dùng để gọi mẹ của quân vương. Về sau, Triệu Hiếu Thành vương cũng theo cách của nhà Tần, tôn xưng mẹ ruột Hiếu Uy Thái hậu.

Vào thời nhà Tần, Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước và xưng Hoàng đế, do vậy mẹ của Hoàng đế gọi là [Hoàng thái hậu]. Tuy nhiên mẹ của Thủy Hoàng là Triệu Cơ qua đời trước khi ông xưng Đế nên ông chỉ có thể truy tôn bà làm Đế Thái hậu (帝太后). Thời nhà Hán, quy định về tôn vị Hoàng thái hậu rất chặt chẽ, và người đầu tiên trở thành Hoàng thái hậu khi còn sống là Lã hậu, Hoàng hậu của Hán Cao Tổ Lưu Bang.

Tước vị [Hoàng thái hậu] là dành riêng cho mẹ của Hoàng đế, còn [Vương thái hậu] là dành cho mẹ của các quân chủ mang tước Vương. Cả hai tước hiệu đều được gọi tắt thành Thái hậu, song ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.

Đối với phiên hệ tiếng Anh, tước hiệu [Hoàng thái hậu] là [Empress Dowager], [Dowager Empress] hoặc [Empress Mother]; còn Vương thái hậu là [Queen Dowager], [Dowager Queen] hoặc [Queen Mother]. Tuy vậy, các quốc gia phương Tây không thường xuyên sử dụng những cách gọi này, mà họ thường gọi vị goá phụ ấy bằng tên của người chồng, như Victoria, Vương nữ Vương thất, vợ của Hoàng đế Friedrich III, trong thời gian làm quả phụ được gọi là [Kaiserin Friedrich; nghĩa là Hoàng hậu Friedrich]. Còn một cách khác đơn giản hơn, họ sẽ thường được gọi theo tên thật, bất chấp vai vế, như Mary xứ Teck của Vương quốc Liên hiệp Anh, từ khi chồng là George V của Anh qua đời, bà chỉ được gọi đơn giản là [Queen Mary], dù cho là thời hai người con trai lẫn người cháu nội, Elizabeth II.

Việc sách phong cho một Hoàng thái hậu gọi là 「Tấn tôn; 晉尊」, có Sách bảo (册宝) do chính Hoàng đế dẫn đầu bá quan văn võ đến dâng tiến trong đại lễ tấn tôn. Quy định về tấn tôn Hoàng thái hậu cũng là một trong những đại lễ lớn nhất trong bất kì sách điển của bất kì triều đại Đông Á nào (thời Hậu Lê có Lịch triều hiến chương loại chí, thời nhà Nguyễn có Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ), cộng thêm quan niệm tôn trọng chữ hiếu ở các quốc gia Hán quyển Đông Á, cho nên có thể nói đây là một trong những sự kiện lớn của một triều đại.

Qua các triều đại, có rất nhiều trường hợp tôn vị Hoàng thái hậu. Tuy nhiên thông thường đều chia ra các quy định chính:

Tại Nhật Bản, thời Thiên hoàng Daigo trở về trước, danh hiệu Hoàng thái hậu thường nhất định chỉ dùng cho Hoàng hậu của Thiên Hoàng, hoặc là Chuẩn mẫu của Thiên Hoàng kế nhiệm (như Anh Chiếu Hoàng thái hậu, chuẩn mẫu của Thiên hoàng Minh Trị). Những mẹ sinh của Thiên Hoàng không phải là Hoàng hậu, hoặc chỉ là xuất thân bình dân thì đều chỉ có thể tấn tôn danh vị là 「Hoàng thái phi; 皇太妃」 và 「Hoàng thái phu nhân; 皇太夫人」.

Tuy nhiên, sau khi Thiên hoàng Daigo đăng vị, dưỡng mẫu của ông là Đằng Nguyên Ôn Tử (藤原温子) được nhậm Trung cung chức, tuy chỉ được tôn làm Hoàng thái phu nhân, nhưng thực chất địa vị của bà khi đó đã ngang với Hoàng thái hậu. Từ đó về sau, kể cả sinh mẫu của Thiên Hoàng vốn không phải Hoàng hậu khi trước cũng đều có thể trở thành Hoàng thái hậu. Dẫu vậy, hoàng thất Nhật Bản vẫn khắc khe với sinh mẫu của Thiên Hoàng ở địa vị thấp, thậm chí không thể tấn tôn mà chỉ dùng biệt đãi, như mẹ đẻ của Thiên hoàng Minh Trị là Tòng nhất vị Nakayama Yoshiko (中山慶子Trung Sơn Khánh Tử).

Trong hoàng thất Nhật Bản không chuộng định huy hiệu, nên khi xảy ra trường hợp cần phải đồng tôn thì luôn có những điểm dị thường để tránh trùng lặp. Ví dụ là thời kì Thiên hoàng Montoku, mẹ của ông Đằng Nguyên Thuận Tử (藤原順子) vốn là Hoàng hậu của Thiên hoàng Ninmyō và là Đế mẫu, hoàn toàn xứng đáng được tôn Hoàng thái hậu. Nhưng khi đó trong cung đã có Thái hoàng thái hậu Quất Gia Trí Tử (橘嘉智子) và Hoàng thái hậu Chính Tử Nội thân vương (正子內親王), nên Thuận Tử chỉ có thể được tôn làm Hoàng thái phu nhân. Sau khi Thái hoàng thái hậu Quất Gia Trí Tử qua đời, Thiên hoàng Montoku mới ở năm Tề Hành nguyên niên (854) tiến hành tấn tôn Hoàng thái hậu Chính Tử Nội thân vương làm Thái hoàng thái hậu, đưa mẹ đẻ Đằng Nguyên Thuận Tử chính thức nhận danh hiệu Hoàng thái hậu.

Khi Hoàng đế còn quá nhỏ tuổi, người mẹ của vị Hoàng đế ấy thường sẽ có quyền nhiếp chính trong một khoảng thời gian nhất định đến khi Hoàng đế đến tuổi trưởng thành. Hiện tượng mẹ của quân chủ nhiếp chính bắt đầu từ khi Tuyên Thái hậu Mị Bát Tử, sinh mẫu của Tần Chiêu Tương vương, người được tôn làm Thái hậu và tham gia triều chính, mở đầu hiện tượng Thái hậu chuyên quyền trong suốt chiều dài lịch sử các quốc gia Đông Á.

自古雖主幼時艱,王家多釁,必委成冢宰,簡求忠賢,未有專任婦人,斷割重器。唯秦羋太后(即宣太后)始攝政事,故穰侯權重於昭王,家富於嬴國。

Từ xưa khi các Vương còn nhỏ tuổi, cơ nghiệp vương thất gặp nguy, tất sẽ ủy thác cho Trủng tề, lại cầu danh hiền, chứ không có chuyện dựa dẫm vào đàn bà, có nguy cơ làm đứt đoạn giang sơn. Chỉ duy có Mị Thái hậu nước Tần, khơi mào cho chuyện nhiếp chính sự, khiến Nhương hầu (Ngụy Nhiễm) quyền ngang với Chiêu vương, thế lực áp đảo tại đất họ Doanh.

Sang thời nhà Hán, Lữ Thái hậu nhân lúc Hán Huệ Đế bạo bệnh băng hà, Hoàng đế Lưu Cung còn nhỏ mà tự mình chính thức lâm triều, ra chiếu chỉ tự xưng mình là 「Chế; 制」, mở đầu cho một hiện tượng mà các sử gia gọi là 「Lâm triều xưng chế; 临朝称制」 của các vị Hoàng thái hậu. Vào thời điểm đó, các Thái hậu có thể lên triều nghị chính một cách công khai như các vị Hoàng đế quân chủ.

Huệ Đế băng, Thái tử tức vị Hoàng đế. Niên ấu, Thái hậu lâm triều xưng chế, đại xá thiên hạ.

Vốn dĩ, "Lâm triều" ý là xử lý quốc chính, tương đương Thiên tử lâm triều, còn "xưng chế" là tiến hành quyền quản lý quốc chính như Thiên tử. Trong Hậu Hán thư, cuốn thứ 3 - "Túc Tông Hiếu Chương hoàng đế bản kỷ", có ghi lại rằng:「"Đế thân xưng chế lâm quyết, như Hiếu Tuyên Cam Lộ Thạch Cừ cố sự, tác Bạch Hổ nghị tấu"; 帝親稱制臨決,如孝宣甘露石渠故事,作白虎議奏。」. Như vậy, "Lâm triều" tức là đăng vị giải quyết quốc sự, mà hậu phi cung tần vốn dĩ không có quyền tham chính, nếu như có quyền đó, thì tức là "xưng chế", hàm ý hành xử đều tương đương quyền lực của Hoàng đế.

Đến thời của Võ Tắc Thiên, bà ngồi sau một bức mành (Hán ngữ gọi "Liêm tử"; 帘子) để nghe triều thần nghị luận việc nước sau lưng Đường Cao Tông, can thiệp vào chính trị càng sớm càng tốt, thì mới khai sinh ra một khái niệm gọi là 「Thùy liêm; 垂帘」, có nghĩa là "Buông rèm", cho phép Hoàng hậu có thể ở sau Hoàng đế mà dự thính cùng thảo luận chính sự và hướng dẫn hoàng đế về những vấn đề quan trọng. Vốn dĩ, "Lâm triều xưng chế" có quyền lực như hoàng đế, nhưng "Buông rèm" được phát minh ra để giúp đỡ và hỗ trợ ông cai trị. Điều này có ghi trong Cựu Đường thư:

時帝風疹不能聽朝,政事皆決於天后。自誅上官儀後,上每視朝,天后垂簾於御座後,政事大小皆預聞之,內外稱為「二聖」。帝欲下詔令天后攝國政,中書侍郎郝處俊諫止之。

Khi vua (tức Đường Cao Tông) bị bệnh không thể nghe triều, chính sự toàn quyết do Thiên hậu (tức Võ Tắc Thiên). Từ khi giết Thượng Quan Nghi, mỗi lần coi triều, Thiên hậu đều buông rèm ngồi ở sau bảo tọa, chính sự lớn nhỏ đều nghe biết hết, đương thời xưng gọi 「Nhị Thánh」. Vua sau đó hạ chiếu lệnh Thiên hậu Nhiếp quốc chính, Trung thư Thị lang Hách Xử Tuấn ngăn cản.

Sang thời nhà Tống, đời Tống Nhân Tông, có Chương Hiến Lưu Thái hậu từng được di chiếu 「Quân quốc trọng sự, quyền thủ xử phân; 軍國重事,權取處分」, đứng đầu nhóm người được quyền quản lý chính sự. Vào lúc ấy, việc nhiếp chính này của Lưu Thái hậu tiến hành Thùy liêm ở Thừa Minh điện (承明殿), Hoàng đế ở bên Tả, Thái hậu ở bên Hữu, vẫn dùng việc [Thùy liêm] để giải quyết sự vụ[1][2]. Sang thời Tống Anh Tông, trong thời gian cai trị đầu tiên thì ông từng liên tiếp bạo bệnh, khi ấy Từ Thánh hậu từng ở sau mành mà nhiếp chính quốc gia trọng sự, đây là lúc chính thức ghi nhận việc Thái hậu tham chính bằng cách buông rèm là 「Thùy liêm thính chánh; 垂帘听政」. Việc này được sách Đông đô sự lược (東都事略) chép rất rõ:

Anh Tông bạo bệnh, Từ Thánh hậu thùy liêm thính chính.

Từ đó, các đời Hoàng thái hậu hoặc Hoàng hậu, nữ quyến nhiếp chính đều ngồi sau bức mành nghe việc, làm cho cụm từ "Thùy liêm thính chánh" từ đó ám chỉ việc phụ nữ tham dự triều chính. Theo quy chế thời Bắc Tống, nghi thức của Thái hậu nhiếp chính đều tương tự Hoàng đế[3], Thái hậu hạ thánh chỉ thì tự xưng là 「Dư; 予」, trên triều đường thì tự xưng 「Ngô; 吾」, mà không thể tự xưng từ chỉ chuyên dùng cho Hoàng đế là 「Trẫm; 朕」.

Nho gia Tuân Tử, đem nữ chủ, trá thần, tham lại xưng là 「Tam loạn; 三亂」[4], do đó ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về sau của việc nữ chủ tham gia chính sự, điển hình là từ thời Nam Tống, đã lấy Tân Nho học của Chu Hi vốn chịu ảnh hưởng từ lý thuyết của Tuân Tử để phán ánh gay gắt việc nữ chủ lâm triều và độc bá triều cương. Các triều đại về sau dần hạn chế việc cho phép Thái hậu tham gia chính sự, khi các Hoàng đế còn nhỏ thì các hội đồng nhiếp chính lập ra đều có Thân vương và quan đại thần đứng đầu phụ chính, điển hình như chế độ của nhà Minh và nhà Thanh.

Cũng như Hoàng hậu, trong ngôn ngữ cổ Trung Quốc có rất nhiều cách gọi ám chỉ Thái hậu. Những từ tiêu biểu:

Thời Tây Hán, các hoàng tử đều có đất phong và nhận tước Vương, thì mẹ của các hoàng tử đó được gọi là Vương quốc Thái hậu (王國太后). Sang thời Đông Hán, danh hiệu "Vương quốc Thái hậu" được thay thế bằng phong vị Vương quốc Thái phi (王國太妃), và từ đó danh hiệu "Thái hậu" chỉ dùng để gọi mẹ các Hoàng đế. Vào lúc Hán Huệ Đế băng, Hoàng thái hậu Lữ Trĩ lập Lưu Cung kế vị. Vào lúc đó, tuy Hiếu Huệ Trương hoàng hậu là Mẫu hậu của Tân Hoàng đế, Trương hậu vẫn giữ danh vị Hoàng hậu mà không phải Hoàng thái hậu. Từ đó cũng là trường hợp Đế mẫu hiếm hoi không được tấn tôn Hoàng thái hậu trong lịch sử.

Thời Hán Ai Đế Lưu Hân, do Ai Đế là nhận Hán Thành Đế làm hoàng phụ, trở thành Thái tử, nên khi lên ngôi ông nhận đích tổ mẫu là Vương Chính Quân làm Thái hoàng thái hậu và Hoàng hậu Triệu thị của Thành Đế làm Hoàng thái hậu. Nhưng ông vẫn tôn kính mẹ đẻ Đinh Cơ và bà nội là Phó Thái hậu, luôn tìm cách nâng địa vị của họ. Thời kì này vẫn chưa có hệ thống huy hiệu hoàn chỉnh, do vậy Hán Ai Đế đã liên tiếp nghĩ ra nhiều dị thể từ danh hiệu Hoàng hậu và Hoàng thái hậu vốn có, và cuối cùng tạo nên một thời kì mà trong cung có một lúc 4 vị Thái hậu với những danh hiệu chưa từng có:

Tại Hàn Quốc, nhà Cao Ly vẫn có ý ngang hàng với Trung Hoa khi ấy là nhà Tống, họ tôn các mẹ của Quân vương là Vương thái hậu như điển chế cổ. Sang đó nhà Triều Tiên xưng làm Quốc vương, và nhận làm chư hầu nhà Minh, nên mẹ của Quốc vương nhà Triều Tiên được gọi là Vương đại phi. Không giống như Trung Quốc, nhà Triều Tiên coi trọng đích-thứ, nếu Quốc vương kế vị là thứ xuất, thì mẹ ruột không thể tôn làm Vương đại phi, thậm chí cả truy phong cũng cấm, mà chỉ có thể duy trì phong hiệu cũ, hoặc gọi là 「Cung; 宮」. Khi Đế quốc Đại Hàn thành lập, lịch sử Hàn Quốc mới xuất hiện một vị Hoàng thái hậu đầu tiên và duy nhất, đó là Kế phi của Triều Tiên Hiến Tông là Hiếu Định Thành hoàng hậu Nam Dương Hồng thị, khi tấn tôn được gọi là 「Minh Hiến Thái hậu; 明憲太后; 명헌태후」

Trong khi đó, lịch sử Việt Nam thời Lê Trung hưng, các Chúa Trịnh chưởng quyền lấn át các Hoàng đế họ Lê, đã đặt ra danh vị để tỏ ra ngang hàng với Hoàng thất. Các Chúa Trịnh tôn mẹ mình là 「Vương thái phi; 王太妃」, bà của chúa là 「Thái tôn thái phi; 太尊太妃」. Một vài vị Vương thái phi có công dưỡng đối với Hoàng đế nhà Lê, hoặc vì cả nể chúa Trịnh, mà được tấn tôn với danh hiệu 「Quốc mẫu; 國母」 hay 「Quốc thái mẫu; 國太母」.

Trong lịch sử Nhật Bản, thời Thiên hoàng Go-Reizei, trong cung lập 1 lúc 3 vị chính phối, là Hoàng hậu Đằng Nguyên Hoan Tử (藤原歡子), Trung cung Đằng Nguyên Khoan Tử (藤原寬子) còn có Chương Tử Nội thân vương (章子內親王), được sắc phong danh hiệu Hoàng thái hậu. Đây trở thành trường hợp cực hiếm trong lịch sử khi danh vị Hoàng thái hậu lại phong cho một chính thất của Thiên Hoàng.

Suốt thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, nhiều quốc gia xưng Vương và họ tôn mẹ mình làm Vương thái hậu. Thời Bắc Ngụy, các vị Hoàng đế ngoài vị Hoàng thái hậu là mẹ đích (do quy định Tử quý mẫu tử nên mẹ ruột đều bị xử tử), thì người Nhũ mẫu chăm sóc các vị Hoàng đế từ bé cũng được hiển quý, gọi là 「Bảo Thái hậu; 保太后」.

Thời Hậu Đường, Hậu Đường Trang Tông có mẹ cả là Lưu thị, nhưng lại bất chấp lễ pháp, tấn tôn mẹ ruột Tào thị làm Hoàng thái hậu (sau là Trinh Giản hoàng hậu), còn Lưu thị chỉ là Hoàng thái phi. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử khi thứ bậc đích-thứ lẫn lộn đến cực điểm.

Thời nhà Liêu, Thừa Thiên Thái hậu vốn là em gái Liêu Nhân Tông. Khi Liêu Nhân Tông băng, con trai kế vị còn nhỏ, do đó trong di chiếu mệnh em gái Gia Luật thị có quyền nhiếp chính, xưng Thừa Thiên Thái hậu. Đó là vị Thái hậu duy nhất trong lịch sử Trung Quốc không phải mẹ của Hoàng đế, mà là cô của Hoàng đế.

Trong văn hóa phương Tây, Hoàng thái hậu chỉ đơn giản là "Hoàng hậu của Hoàng đế tiền nhiệm", họ là một cựu Hoàng hậu hoặc là mẹ của Hoàng đế kế nhiệm, do vậy không có sự tấn tôn, mà chỉ có địa vị trong gia đình hoàng thất rất cao. Một điều rằng các [Empress Dowager] nhất định phải từng là Hoàng hậu (Empress consort), nếu chỉ là Đế mẫu (chưa từng làm Hoàng hậu) thì chỉ có tôn xưng kính nể, chứ không có danh hiệu, như mẹ của Hoàng đế Napoleon I của Đế quốc Pháp là Letizia Ramolino, đương thời bà chỉ được tôn xưng là 「Madame Mère de l'Empereur; Đức Hoàng mẫu bệ hạ」.

Thời Đế quốc Ottoman, mẹ của một Sultan được tôn là 「Valide Sultan; والده سلطان」, đây là một danh hiệu có nghĩa là "Mẹ của Sultan" và chỉ được dành cho người mẹ đang còn sống của vị Sultan trị vì. Địa vị của một Valide Sultan rất lớn không chỉ trong hậu cung của Sultan mà thậm chí là nền chính trị của toàn Đế quốc. Thời kỳ cuối cùng của Đế quốc Ottoman diễn ra dưới sự nhiếp chính của các Valide Sultan, khi các Sultan còn quá nhỏ, thì Valide Sultan đã dùng danh nghĩa nhiếp chính thao túng toàn diện nền chính trị.

Một ngọn núi thuộc huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận được biết đến như một thắng cảnh quốc gia với hệ thực vật phong phú, đồng thời, nơi đây cũng là chốn linh thiêng đối với khách mộ đạo.

Bài này viết về hoàng hậu nhà Tống. Đối với hoàng hậu khác cùng tôn hiệu, xem

Minh Đức Lý Hoàng hậu (chữ Hán: 明德李皇后; 960 - 1004), là vợ thứ 3, đồng thời là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa[1].

Minh Đức Hoàng hậu Lý thị, xuất thân là người Lộ Châu, Thượng Đảng (nay là Trường Trị, Sơn Tây), trong một gia tộc quan liêu lâu đời. Tổ phụ Lý Triệu (李肇), làm quan nhà Hậu Đường đến Tư không, tử nạn khi khai chiến với Khiết Đan. Thân phụ Lý Xử Vân (李處耘), khi ấy là Thứ sử của Tri Châu (淄州), trời sinh trí dũng lại gan dạ, sau được phong Tống triều Khai quốc nguyên huân (宋朝開國元勛), tặng Thái sư. Đích mẫu Ngô thị (吴氏), sinh mẫu là Trần thị (陳氏)[1]. Trong nhà bà, có anh trai Lý Kế Long (李继隆) làm đến Điện tiền đô Chỉ huy sứ rồi Tiết độ sứ, ngoài ra còn có Lý Kế Tuân (李继恂) cùng Lý Kế Hòa (李继和), đều làm Thứ sử rồi Tiết độ sứ, gia thế họ Lý ngày một thịnh vượng.

Trong những năm Khai Bảo thời Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận, vì là con cháu huân thần có công lao, Lý thị được tuyển làm Vương phi cho Triệu Quang Nghĩa, khi đó đang là Tấn vương (晉王).

Năm Ung Hi nguyên niên (984), Tống Thái Tông tức vị, lập Lý thị làm Hoàng hậu. Lý hậu đoan trang diễm lệ, nhân từ độ lượng, là bậc Mẫu nghi thiên hạ. Năm Chí Đạo thứ 2 (996), dụ tấn phong đích mẫu Ngô thị làm Vệ Quốc thái Phu nhân (衛國太夫人), sinh mẫu Trần thị làm Hàn Quốc thái Phu nhân (韓國太夫人).

Khi Tống Thái Tông quá thế (997), hoạn quan Vương Kế Ân (王继恩) ngầm lập Thái Tông trưởng tử Triệu Nguyên Tá thay Thái tử Triệu Hằng kế vị. Nhưng đại thần Lữ Đoan (吕端) đứng ra bảo hộ Thái tử, sử gọi Tống Chân Tông. Sau khi Chân Tông tức vị, Hoàng hậu Lý thị được tôn làm Hoàng thái hậu, ban đầu ngự ở Gia Khánh điện (嘉慶殿) thuộc Tây cung (西宮), sau chuyển qua Vạn An cung (萬安宮). Tống Chân Tông đối với Lý Thái hậu thập phần hiếu kính, mỗi khi bệnh đều hầu hạ thuốc thang[1], lại với anh trai của bà muôn phần vị nể, phong làm Tiết độ sứ của Trấn An Quân, kiêm Kiểm hiệu Thái phó (检校太傅), sau lại thăng Đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự (同中書門下平章事), thập phần trọng dụng.

Năm Cảnh Đức nguyên niên (1004), ngày 15 tháng 3 (âm lịch), Lý Thái hậu qua đời, hưởng dương 45 tuổi. Thụy hiệu Minh Đức Hoàng hậu (明德皇后), táng ở Vĩnh Hi lăng (永熙陵)[1].

Chú thích: # Bị phế khi đang tại vị; ~ Từng bị phế khi tại vị, sau được khôi phục; * Từng lâm triều thính chính